IV. Quản lý môi trường ao nuôi
Bảng 6: Các yếu tố môi trường phù hợp để thả tôm thẻ chân trắng
tôm thẻ chân trắng
Yếu tố môi trường | Khoảng phù hợp để thả tôm |
1. pH | 7,5-8,5 |
2. Hàm lượng oxy | Lớn hơn 4 ppm |
3. Độ kiềm | Không thấp hơn 80-100 ppm |
4. Độ cứng | Không thấp hơn 200 ppm |
5. Độ mặn | 5-10 ppm |
6. Amonia | Không cao quá 0.1 ppm |
7. Độ trong | 50-70 cm |
8. Tảo | Nước có màu xanh nõn chuối, thành phần tảo silic không quá 5% |
Bảng 7: Các yếu tố môi trường phù hợp trong quá trình nuôi tôm thẻ chân trắng
Chất lượng nước | Ngưỡng phù hợp |
1. pH | Buổi sáng: 7,5-8 Buổi chiều 8-8,5 |
2. Oxy hòa tan trong nước | Không thấp hơn 4 ppm |
3. Độ kiềm | 100-200 ppm |
4. Độ cứng | Không thấp hơn 200 ppm |
5. Độ mặn | 1-3 ppm |
6. Amonia | Không quá 0,1 ppm |
7. Độ trong | Tháng 1: 60-70 cm Tháng 2: 40-50 cm Tháng 3: 30-40 cm Tháng 4: 30-40 cm |
8. Tảo | Tảo lục |
Độ pH: ngoài độ pH ở mức nói trên thì pH trong ao nuôi còn phải đảm bảo độ dao động pH trong ngày không quá 0,5-1 ví dụ như pH buổi sáng 7,8 thì pH buổi chiều lúc 13 giờ không quá 8,8 nhằm điều chỉnh lượng oxy trong ao nuôi và kìm hãm sự phát triển của vi sinh vật có hại trong ao nuôi tôm. Đồng thời cân bằng hệ đệm cacbonate trong ao.
Cách xử lý khi pH trong ao nuôi cao:
- Khi pH trong ao nuôi tăng cao: Nếu pH trong ao không quá cao ta có thể sử dụng chế phẩm sinh học chứa các vi sinh vật có lợi nhằm tăng cường tốc độ phân huỷ hợp chất hữu cơ trong ao nuôi.
Nếu pH trong ao nuôi quá cao thì biện pháp xử lý bằng sản phẩm chứa vi sinh vật có lợi không hiệu quả mà ta có thể sử dụng đường cát 3-10 kg/hecta hoặc rỉ mật 3-5 kg/hecta.
Nếu pH trong ao quá cao do mật độ tảo trong ao dày, chứa nhiều tảo độc ta có thể thay nước, hoặc sử dụng một số loại hoá chất như Hydroperoxit tỷ lệ 1-2 lít/hecta vào lúc chiều mát, tại điểm cuối gió.
- Khi độ pH thấp: Sử dụng vôi tôi (canxi hydroxyt) để tăng pH ao nuôi với tỷ lệ 10 kg/hecta, mang hoà với nước rồi tạt khắp hồ.
Độ kiềm (alkalinity): Các biện pháp xử lý khi độ kiềm chưa phù hợp:
Độ kiềm phù hợp để thả tôm là 80 ppm trở lên. Nếu độ kiềm thấp có thể sử dụng ALKA MAG theo tỷ lệ 3-5 kg/hecta. Định kỳ sử dụng 7 ngày một lần sẽ cải thiện độ kiềm trong ao nuôi. Biện pháp này có thể thực hiện vào lúc sáng sớm. Nếu muốn tăng lượng kiềm trong ao nhanh chóng sử dụng vôi Sodium bicarbonate theo tỷ lệ 5-10 kg/hecta có thể sử dụng phối hợp với rỉ mật nhằm tăng lượng kiềm trong nước.
Các biện pháp giảm hàm lượng khí độc trong ao nuôi tôm:
- Dùng chế phẩm sinh học như Bacillus subtilis vannamei loại chế phẩm sinh học dạng bột gồm nhiều vi sinh vật có lợi như: Bacillus sp, Nitrosomonas sp, Nitrobacter sp,Pedioccus sp giúp phân huỷ chất thải và chuyển hoá amonia, nitrit sang trạng thái Nitrate. Ngoài ra Bacillus subtilis vannamei còn chứa enzyme giúp phân huỷ chất thải, do đó giảm lượng bùn đáy hồ. Dùng Bacillus subtilis vannamei theo tỷ lệ 0.5-1 kg/hecta.
- Trong trường hợp có thể thay nước nên tiến hành thay nước 20-30% lượng nước ao, nên sử dụng nước đã qua ao lắng nhằm hạn chế lượng chất hưũ cơ lơ lửng vào ao. Giảm lượng thức ăn cho tôm ăn xuống 10-20 %.
- Tăng cường mở máy quạt nước nhằm tăng hàm lượng oxy trong ao tăng quá trình phân huỷ hiếu khí, giảm khí độc.
- Quản lý tốt pH trong ao không để pH tăng quá cao làm tăng hàm lượng khí amonia. Trong trường hợp ao có nhiều tảo đáy phải tiến hành vớt hết rong đáy nhằm hạn chế lượng hợp chất thối rữa dưới đáy hồ.
Biện pháp xử lý lượng nitrit:
- Nếu có điều kiện nên thay nước 20-30% lượng nước trong ao nuôi, nên sử dụng lượng nước đã qua ao lắng để cho vào ao.
- Sử dụng chế phẩm vi sinh như: US PZT theo tỷ lệ 0,5-1 kg/hecta. Định kỳ 7 ngày sử dụng 1 lần trong suốt quá trình nuôi. Nếu hàm lượng nitrit trong ao quá cao sử dụng US PZT có khả năng giảm nitrit nhanh chóng.
- Giảm lượng thức ăn xuống 10-20% nhằm hạn chế thức ăn thừa, hạn chế khí độc.
- Mở máy quạt nước nhằm tăng hàm lượng oxy trong nước tăng quá trình phân huỷ hiếu khí amonia thành nitrit, nitrate. Hàm lượng oxy nên duy trì lớn hơn 5 ml, độ kiềm nên duy trì lớn hơn 80 mg/lít.
Các biện pháp quản lý tảo:
- Trường hợp rêu hạt sinh sản nhiều nên thay nước ở tầng mặt lúc ban ngày do có tảo nổi trên mặt nước hoặc vớt ra, không nên sử dụng hoá chất vì tảo sẽ chìm xuống đáy hồ và thối rữa đồng thời sẽ bám vào mang tôm là nguyên nhân gây bệnh cho tôm.
- Trường hợp rêu đuôi chồn quá nhiều cũng phải thay nước hay lấy dung dịch xử lý nước loại có thể xử lý tảo đuôi chồn, cũng có thể sử dụng hoá chất như Formalin với tỷ lệ 3-5 lít/ha cho vào góc hồ lúc buổi chiều 4-5 giờ liên tục cho 2-3 ngày liền, đến khi nào màu nước sáng lên. Ngoài ra cũng có thể dùng MOSSY 500g/ha cho vào góc hồ cuối hướng gió lúc ban ngày cũng có thể giảm được đáng kể tỷ lệ tảo. Sau khi xử lý bằng hoá chất thì dùng CALINA để giảm khí độc và giúp lắng đọng xác tảo xuống đáy hồ, đồng thời sử dụng sản phẩm vi sinh tiêu huỷ chất thải dưới đáy hồ.
- Tránh để nước có độ mặn dưới 10 ppt vì sẽ dễ gây ra các loại rêu rong màu xanh tím do nhóm rong rêu tảo loại này khó sinh ra ở nước có độ mặn trên 15 ppt.
1. Nhóm tảo xanh
- Nếu pH trong hồ cao do tảo hạt như Ocystis thì cho thay nước bề mặt lúc buổi trưa giống trường hợp tảo màu xanh tím.
- Trong trường hợp cần thiết phải xử lý bằng hoá chất, lấy Formalin và Hydrogen Peroxit như nhau để giảm độc. Sau đó dùng tiếp bằng CALINA để giảm khí độc có thể gây ra đồng thời giúp lắng đọng các loại xác tảo xuống đáy hồ và dùng vi sinh tiêu huỷ chất thải ở đáy hồ.
2. Nhóm tảo nâu (Diatom)
Nếu gặp Nitric tỷ lệ nhiều làm cho độ pH trong nước cao và bám vào mang tôm thì có thể thay nước hoặc dùng vôi lò 10 kg/ha hoà với nước và tạt sau 12 giờ đêm để không ảnh hưởng do pH quá nhiều. Quan sát màu nước, nếu màu nước sậm có thể xử lý lần nữa cách một ngày hoặc sử dụng Formalin 40% trước máy quạt nước lúc sáng có nắng với tỷ lệ như ở bảng 7. Formalin sẽ huỷ chất nhầy protin bọc màng của Diatom làm cho Diatom phân huỷ.
Bảng 9: Tỷ lệ sửdụng Formalin trong hồ có độ mặn khác nhau
Độ mặn PPT | Tỷ lệ lọc Formalin/ha |
0-12 | 15-20 |
13-20 | 20-25 |
21-30 | 25-30 |
Trên 30 | 30-35 |
Trong trường hợp có Coscinodiscus nhiều, không nên sử dụng hoá chất sẽ làm cho tảo có lợi chết cùng một lúc. Khi tế bào tách ra, lượng Amoniac trong hồ tăng lên trong thời gian rất ngắn và gây nguy hiểm cho tôm, trong trường hợp này xử lý bằng cách dùng vi sinh 3 ngày 1 lần để vi sinh đi tranh giành thức ăn của coscinodiscus làm cho nó chết dần dần. Lượng Amoniac sẽ không tăng lên nhiều.
3. Nhóm Dinoflagellate ( Tảo Phát Sáng)
Nếu gặp nhóm tảo loại này mà không thể thay nước được thì có thể dùng thuốc diệt khuẩn như LASER – S
Với tỷ lệ 1-2 lít/ha hoà với nước gấp 10-50 lần đem tạt tại vùng có tảo nhiều như góc hồ. Sau khi xử lý nhóm tảo này nhất thiết phải sử dụng dung dịch xử lý nước để huỷ chất độc của Amoniac.
Động vật phù du (Zooplankton)
Trường hợp Cilyatl giai đoạn tăng số lượng trong thời gian rất ngắn, khi hết thức ăn sẽ tự chết làm cho nước có màu nếu có mật độ dày. Phải làm công tác xử lý cùng cách như xử lý Rotifer mật độ dày như: LASER –S hoà với nước 1-2 lít/ha. Khi Cilyatl hoặc Rotifer chết mới làm màu nước mới.
Cách xử lý nhóm Protozoa gặp nhiều ở nền đáy có nhiều chất hữu cơ, do đó sẽ xử lý bằng vi sinh tiêu huỷ chất thải, để không còn tồn đọng chất thải ở nền hồ hay đặt máy đánh nước ở vị trí phù hợp để tập trung bùn trong nền hồ vào giữa, làm cho nền hồ sạch và đề phòng vấn đề tôm bẩn bùn. Phần xử lý vấn đề Zoothamnium bám thân tôm có thể bằng cách thay nước để thúc cho tôm lột và xử lý bằng vi sinh thường xuyên không để chất thải tồn đọng dưới đáy hồ. Nếu có Zoothamnium nhớt bám nhiều, có thể xử lý bằng thuốc diệt Zoothamnium nhớt vào lúc buổi sáng và mở máy đánh nước mạnh. Khi quan sát thấy tôm có hiện tượng tốt lên, có thể xử lý lại lần nữa để cho chất vi khuẩn còn rơi rớt hết đi.
V. CÁCH ĐỀ PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH
Trong giai đoạn đầu, có thể quan sát từ các bộ phận sau:
- Vỏ thân: Tôm mới bệnh hay đang bệnh, vỏ thân tôm có màu sậm hay xám hơn bình thường, không bóng đẹp, có vết mòn, giòn hay có chất lạ đóng vẩy từng mảng bám vào vỏ hay toàn thân tôm.
- Đuôi: Khi tôm yếu, đuôi tôm rủ xuống, không xoè như tôm bình thường. Nếu bóp nhẹ ở góc đuôi tôm, đuôi sẽ xoè ra một chút.
- Ruột: Tôm mới bệnh sẽ ăn ít đi, khi bệnh nặng thì tôm bỏ ăn. Quan sát ruột tôm bệnh sẽ thấy rỗng hoặc không có thức ăn.
- Mang: Khi quan sát thấy màu mang tôm khác thường, màu mang đổi thành các màu như: màu vàng, màu cam, màu nâu, màu đỏ, màu đen, hơi giòn bẻ thối rữa ngoài ra có trạng thái phù nước.
- Chân bơi, chân bò và đuôi: cần quan sát xem có vết rách, xước mòn hoặc có mảng bẩn bám tại các bộ phận đó hay không.
- Gan và lách: có thể nhìn xuyên qua thân vỏ tôm hay mở phần vỏ đầu ra quan sát màu sắc và kích thước của gan và lách có khác thường hay không. Gan và lách của tôm bệnh sẽ teo nhỏ, có màu sậm hoặc xám hơn bình thường.
VI. THU HOẠCH: Sau khoảng 03 tháng nuôi, tôm thẻ chân trắng đạt cỡ thương phẩm 60 – 80 con/kg thì tiến hành thu hoạch.
( www.tiepphat.com )